Báo quốc phòng: National Interest của Mỹ vừa liệt kê 5 lực lượng hải quân hùng mạnh nhất mọi thời đại.
Hải quân Hy Lạp năm 480 TCN
Vào thời điểm cuộc xâm lược thứ 2 của Ba Tư, Hải quân Hy Lạp đã nổi danh trên toàn thế giới nhờ chiến thắng Đế chế Ba Tư, giúp bảo tồn nền văn minh phương Tây.
Đế chế Ba Tư đã tạo ra một lực lượng hải quân đa quốc gia bao gồm các thủy thủ từ Phoenicia, Ai Cập, Síp, một phần của Hy Lạp, Tiểu Á để đi xâm chiếm các quốc gia khác.
Một hạm đội Ba Tư với 1207 chiếc trireme (chiến thuyền ba tầng chèo), đã tiến hành xâm chiếm Salamis.
Người Hy Lạp, dẫn đầu bởi Athens và Sparta, đã tập hợp một lực lượng gồm 381 chiếc trireme. Mặc dù, chênh lệch lực lượng rât lớn, nhưng hải quân Hy Lạp tại Salamis đã buộc hải quân Ba Tư phải rút lui.
Chiến thắng của hải quân Hy Lạp đã giúp bảo vệ bờ biển của nước này, ngăn vua Xerxes đệ nhất của Ba Tư đưa quân tấn công đổ bộ, đồng thời gây ra những tổn thất cho Ba Tư khiến Xerxes phải ra lệnh rút quân, và cuộc xâm lược đã kết thúc.
Hải quân Trung Quốc năm 1433
Theo tin quốc phòng Hải quân Trung Quốc là lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới vào thế kỷ thứ 15. Được dẫn dắt bởi Đô đốc Trịnh Hoà (Zheng He), Hải quân Trung Quốc đã tiến hành bảy chuyến đi trong và xung quanh Ấn Độ Dương nhằm tìm ra những tuyến đường thương mại cho việc nhập khẩu hàng hóa, nguyên liệu của Trung Quốc.
Lực lượng tàu của hải quân Trung Quốc tiên tiến nhất thế giới với những chiếc thuyền 3-4 cột buồm, đi trước châu Âu khoảng 1.000 năm.
Hạm đội thám hiểm đầu tiên của Trung Quốc bao gồm 317 tàu, trong đó có 60 chiếc dài hơn 122 m, rộng 49 với 9 cột buồm và 12 cánh buồm. Tại thời nhà Minh, các hạm đội đã thực hiện 7 chuyền thám hiểm qua các khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ, Châu Phi và vùng Vịnh Ba Tư.
Xung đột nội bộ đã dẫn đến sự kết thúc của triều đại nhà Minh, cũng như các hạm đội này. Nhiều chuyên gia cho rằng, Trung Quốc sẽ không bao giờ sở hữu một hạm đội mạnh như vậy
Hải quân Hoàng gia Anh giai đoạn 1815-1918
Là lực lượng hải quân của một đảo quốc, Hải quân Hoàng gia Anh có trách nhiệm bảo vệ các tuyến đường biển dẫn đến các thuộc địa ở nước ngoài của Anh như ở Bắc Mỹ, Ấn Độ và châu Phi.
Giai đoạn 1815-1918 được gọi là "Pax Britannica", một khoảng thời gian tương đối hòa bình trên thế giới. Quy mô trung bình của Hải quân Hoàng gia Anh trong suốt thế kỷ 19 chỉ khoảng 52.000 quân, nhưng nó đóng một vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng trong các "cuộc chiến lớn".
Hải quân Hoàng gia duy trì sức mạnh tương đối thông qua "tiêu chuẩn sức mạnh kép", yêu cầu lực lượng phải mạnh bằng sức mạnh hải quân của ít nhất hai nước lớn cộng lại.
Trong cuộc chiến tranh Crimea (1853-1856) , Hải quân Hoàng gia Anh chỉ chiến đấu vài hành động bề mặt. Thay vào đó, họ thực hiện một loạt những hàng động nhỏ bên trong và ngoài phạm vi Đế quốc Anh như chống cướp biển ở Bắc Phi và Biển Đông, mở cửa thị trường nước ngoài bao gồm cả Nhật Bản và Trung Quốc…
Hải quân Đế quốc Nhật Bản năm 1941
Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) là hải quân hùng mạnh nhất trên thế giới vào đầu Thế Chiến 2. Nhật Bản cũng là một đảo quốc và buộc phải nhập khẩu dầu và các nguyên liệu khác từ nước ngoài. Đây là một yếu điểm khiến Nhật Bản hiểu được tầm quan trọng của việc xây dựng một lực lượng hải quân lớn để duy trì các tuyến đường biển và đảm bảo nguồn lực quân sự cho đất nước.
Khi bắt đấu Thế chiến 2, Nhật Bản có 10 tàu sân bay, với 1.500 thủy thủ tàu sân bay giỏi nhất thế giới. Ngoài ra, lực lượng IJN còn có 12 tàu chiến, bao gồm thiết giáp hạm lớp Nagato và nhiều tàu tuần dương hiện đại, tàu khu trục và tàu ngầm. Các máy bay chiến đấu của Nhật Bản lúc đó cũng là những máy bay tốt nhất trên thế giới như máy bay Zero-sen, máy bay ném bom phóng ngư lôi tuyệt vời, máy bay ném bom bổ nhào…
Nhật Bản đã trang bị vũ khí và huấn luyện binh sĩ tốt nhất cho lực lượng hải quân. Họ đã giành chiến thắng trong các trận chiến tại Malaya, Pearl Harbor và quần đảo Solomon.
Tuy nhiên, một loạt các quyết định sai lầm của lãnh đạo hải quân trong việc giải quyết những thiệt hại sau trận chiến một cách kịp thời đã “niêm phong” số phận của lực lượng hải quân Nhật. Mặc dù thế, Hải quân Nhật Bản năm 1941 vẫn được coi là một trong những lực lượng hải quân hùng mạnh nhất mọi thời đại.
Hải quân Hoa Kỳ năm 1945
Hải quân Hoa Kỳ năm 1945 nổi lên sau chiến thắng từ các cuộc chiến tranh thuộc hai đại dương khác nhau. Ở Thái Bình Dương, hải quân Mỹ chiến đấu chống lại Nhật Bản, trong khi ở Đại Tây Dương, lực lượng hải quân Mỹ chịu trách nhiệm giảm thiểu các mối đe dọa từ Đức cũng như từ các cuộc xâm lăng của Bắc Phi, Ý và Pháp.
Sau trận Trân Châu Cảng, ngành công nghiệp đóng tàu của Mỹ phát triển nhanh chóng để chuẩn bị cho chiến tranh. Số lượng tàu chiến của Hải quân Mỹ tăng từ 790 tàu vào tháng 12/1941 lên 6.768 tàu vào tháng 8/1945.
Từ 17 tàu chiến, 7 hạm đội tàu sân bay, 171 tàu khu trục, 112 tàu ngầm, Hải quân Mỹ được trang bị 23 tàu chiến, 28 hạm đội tàu sân bay, 377 tàu khu trục và 232 tàu ngầm.
Tại thời điểm đó, Hải quân Hoa Kỳ được coi là lực lượng hải quân hùng mạnh nhất trên thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét